Bản thuyết trình đang được tải. Xin vui lòng chờ

Bản thuyết trình đang được tải. Xin vui lòng chờ

HUÂN TẬP HƯỚNG HẠ VÀ HƯỚNG THƯỢNG

Các bản thuyết trình tương tự


Bản thuyết trình với chủ đề: "HUÂN TẬP HƯỚNG HẠ VÀ HƯỚNG THƯỢNG"— Bản ghi của bản thuyết trình:

1 HUÂN TẬP HƯỚNG HẠ VÀ HƯỚNG THƯỢNG
Huân tập là gì? Tác hưởng của Huân tập Huân tập sinh phiền não sinh tử Huân tập đưa đến chân như

2 HUÂN TẬP – TÁC HƯỞNG Huân tập : xông ướp, thói quen, tích lũy, phát triển Huân tập – chủng tử - hiện hành : huân tập đưa vào chủng tử và tăng thượng duyên cho chủng tử hiện hành Hiện tượng thần đồng – thiên tài Tác động của môi trường hoàn cảnh đến với chủ thể Tập nhiễm xấu Tập nhiễm tốt Phản xả có điều kiện – bản năng Huân tập đối với tu học  

3 HUÂN TẬP PHIỀN NÃO SINH TỬ
HUÂN TẬP chính là nguyên nhân khiến chân thể thanh tịnh phát sinh thành cảnh giới chúng sanh, cũng là điều kiện để một chúng sanh có thể thành Phật. Đây là lý do vì sao nhà thiền dạy người “Phản quan tự kỷ bổn phận sự”. Có gì không từ tâm sanh mà không quay lại tâm mình? Sao gọi là "huân tập"?_ Chữ "Huân" là xông ướp; chữ "Tập" là quen. Thí như y phụckhông có mùi thơm, song vì người ta lấy vật thơm xông ướp vào, nên nó quen (có) mùi thơm. Cũng thế, chơn như là pháp thanh tịnh thật không có nhiễm ô, song vì bị vô minh huân tập vào, nên có tướng nhiễm ô. Trái lại, vô minh là pháp tạp nhiễm, cũng không có diệu dụng thanh tịnh, chỉ vì bị chơn như huân tập vào, nên nó có diệu dụng thanh tịnh.

4 Nương nơi sự huân tập của vô minh, thức khởi
Nương nơi sự huân tập của vô minh, thức khởi. Chẳng phải là chỗ phàm phu hay biết, cũng chẳng phải chỗ trí tuệ của Nhị thừa giác được. Y theo Bồ tát thì, từ sơ chánh tín phát tâm quán xét, nếu chứng được pháp thân thì biết được ít phần. Cho đến địa vị rốt ráo của Bồ tát cũng chẳng thể biết hết. Duy chỉ có Phật là thấu được tận cùng. Lại nữa, NGHĨA HUÂN TẬP có 4 pháp nên nhiễm pháp và tịnh pháp khởi chẳng dứt. Thế nào là 4? 1. Tịnh pháp, gọi là chân như.  2. Nhân của tất cả nhiễm ô, gọi là vô minh.  3. Vọng tâm, gọi là nghiệp thức.  4. Cảnh giới hư vọng, đó là 6 trần.

5 HUÂN TẬP HƯỚNG HẠ Thế nào là huân tập khởi ra pháp nhiễm không dứt? Nghĩa là do nương với pháp chân như nên có vô minh; do có vô minh là cái nhân của pháp nhiễm nên liền huân tập chân như. Do sự huân tập ấy nên có vọng tâm. Do có vọng tâm nên liền huân tập vô minh và do đó không rõ pháp chân như nên niệm bất giác khởi lên, hiện ra vọng cảnh giới. Do có cái duyên của pháp nhiễm vọng cảnh giới nên liền huân tập vọng tâm, khiến cho khởi niêểm chấp trược gây các thứ nghiệp và chịu tất cả các thứ khổ nơi thân tâm. Huân tập của vọng cảnh giới có hai nghĩa. Thế nào là hai? Một là huân tập tăng trưởng các niệm; hai là huân tập tăng trưởng chấp thủ. Huân tập của vọng tâm có hai nghĩa. Thế nào là hai? Một là huân tập căn bản nghiệp thức, phải chịu cái khổ sinh diệt của các vị A la hán, Bích chi phật và tất cả Bồ tát; hai là huân tập tăng trưởng phân biệt sự thức, phải chịu nghiệp hệ khổ của phàm phu. Huân tập của vô minh có hai nghĩa. Thế nào là hai? Một là huân tập căn bản, thành tựu được nghiệp thức; hai là huân tập khởi ra kiến ái, thành tựu được phân biệt sự thức.

6 Tương hệ giữa bất giác và đối cảnh, câu hữu tác dụng :
Do bất giác huân tập mà phát khởi nhiễm tâm. Tất cả loại sinh diệt toàn là có vì bất giác huân tập: vì nhân tố và vì duyên tố -- nhân tố là bất giác, duyên tố là đối cảnh do bất giác hình thành. Nhân tố diệt thì duyên tố diệt. Bất giác huân tập và chân như huân tập : Huân tập nghĩa là ví như y phục không có hơi gì nhưng xông ướp bằng thứ có hơi gì thì y phục có hơi của thứ ấy. Ở đây cũng vậy, chân như không có sắc thái ô nhiễm, nhưng bất giác huân tập thì có sắc thái ô nhiễm, bất giác không có hoạt dụng trong sáng, nhưng chân như huân tập thì có hoạt dụng trong sáng.   

7 Quá trình nhiễm pháp huân tập liên tục từ chân như :
Nhiễm pháp được huân tập liên tục như thế nào? Vì có chân như nên có bất giác, vì có bất giác (nhân tố của nhiễm pháp) nên huân tập lại chân như, vì có sự huân tập này nên có vọng tâm; vì có vọng tâm nên huân tập lại bất giác, làm cho bất giác càng bất giác chân như nên hình thành vọng cảnh; vì có vọng cảnh (duyên tố của nhiễm pháp) nên huân tập lại vọng tâm, làm cho vọng tâm phân biệt, cố thủ, tạo nghiệp, chịu khổ. Do vô minh huân tập sanh ra thức. Cảnh giới này, chúng phàm phu không thể biết được; dù cho hàng Nhị thừa dùng trí huệ quán sát cũng không thể biết được; các vị Bồ Tát từ Sơ tín cho đến Tam hiền (Trụ Hạnh, Hướng) phát tâm quán sát, chỉ biết được chút ít; bực Thập địa Bồ Tát (Pháp thân Bồ Tát) cũng chỉ biết được từng phần; 

8 cho đến Đẳng giác Bồ Tát cũng không thể biết hết ; duy có Phật mới biết được rốt ráo.
Tại sao vậy?. _ Vì tâm này từ hồi nào đến giờ, tánh nó vẫn thanh tịnh, không có vô minh; song bị vô mình làm nhiễm ô (bất biến tuỳ duyên), vì thế nên rất khó biết. Bởi thế nên chỉ có Phật mới có thể biết được cảnh giới này. Tóm lại, chơn tam (tâm tánh) vì thướng không vọng niệm, nên gọi là "bất biến" (chơn như). Song chúng sanh vì không ngộ nhập được chơn tâm (nhứt pháp giới) này, lại sanh vọng niệm nên gọi là "vô minh". Huân tập bất giác, vọng thức sanh diệt đưa đến nghiệp khổ : Xét như vậy rồi, lại nghĩ chúng sinh vô thỉ đến giờ toàn do sự huân tập của bất giác mà tâm thức sinh diệt, đã chịu đau khổ lớn lao, nơi thân cũng như nơi tâm; hiện tại cũng chính là đang có vô số lượng những sự áp bức; còn vị lai thì đau khổ chưa biết đến ngần nào. Mọi sự đau khổ ấy khó trút bỏ, khó tách rời, thế mà không hề tỉnh ngộ. Chúng sinh như vậy thật đáng thương cảm

9 Do vô minh huân tập vào chơn như, nên chơn vọng hoà hiệp biến thành thức A lại da. Chúng phàm phu vì đang ở trong vòng thức biến, nên không bao giờ biết được cảnh giới thức biến. Hàng Nhị thừa tuy dùng trí huệ quán sát, phá được ngã chấp; nhưng mây pháp chấp hãy còn dày bịt và che lối chơn tâm, nên cũng không thể thấy được cảnh giới ấy. Các bực Bồ Tát ở vị Tam hiền, mới phá được đôi phần phân biệt pháp chấp; nên chỉ biết được chút ít về cảnh giớinày. Đến bực Thập địa Bồ Tát , hễ phá được một phần vô minh, chứng được một phần pháp thân, thì thấy được một phần của cảnh giới này, và cứ tuần tự như thế, cho đến khi nào phá được 10 phần vô minh, thì chứng 10 phần pháp thân và biết được cả 10 phần của cảnh giớinày. (Thập địa Bồ Tát, do phá vô minh, chứng được pháp thân, nên gọi là "Pháp thân Bồ Tát"). Bực Đẳng giác Bồ Tát, vì còn vi tế vô minh, nên đối với cảnh giới này, biết cũng chưa tường tận. Đến quả vị Phật, do phá vô minh đã sạch hết, nên mới hoàn toàn biết được cảnh giới này; cũng như người đã hoàn toàn thức tĩnh, mới biết được rốt ráo cảnh mê mộng.

10 Vô Minh khác và có liên hệ với Tâm Nhiễm Ô thế nào :
_ Tâm nhiễm ô là phiền não chướng (phiền não ngại) làm chướng ngại căn bản trí (vô phân biệt trí) duyên Chơn như. _ Vô minh là sở tri chướng (trí ngai làm chướng ngại hậu đắc trí (tự nhiên nghiệp trí) duyên các pháp sai biệt của thế gian. _ Tại sao tâm nhiễm ô lại chướng ngại căn bản trí? _ Vì tâm nhiễm ô sanh ra Năng kiến tướng (kiến phần) và Năng hiện tướng (tướng phần) rồi vọng sanh ra chấp thủ cảnh giới(thuộc về Lục thô), nên trái với tánh Chơn như bình đẳng _ Tại sao vô minh(bất giác) lại chướng ngại Hậu đắc trí (sai biệt trí)? Vì các pháp thường tịnh, không có khởi động; còn vô minh thì bất giác vọng động, nên trái với tánh thường tịnh của các pháp. Bởi thế nên không thể tuỳ thuận biết hết các cảnh giới thế gian.   

11 Tập khí hư ngụy – bất giác vọng động tạo thế giới sum la vạn tượng :
“Tập khí hư ngụy huân tập từ vô thủy là, chỉ cho nghiệp chủng của tàng thức, tức là bất giác vọng động vậy. Đã vọng động làm nghiệp liền do kiến (chủ thể) khởi tướng (khách thể), biến ra dường như căn trần, thành các thứ sắc, hành (nghiệp) trong tam giới, bèn có danh tướng dài, ngắn, co, duỗi nhất định, hay sanh trói buộc. Chính hiện tại căn thân thọ dụng những nhu cầu trong thế giới, rồi khởi các thứ vọng tưởng. Tâm cảnh nhập nhau hòa hợp mà hiện, nên nói là “tự tâm hiện”. Nếu hay quán sát cái sở hiện của tự tâm thì biết tất cả sắc, hành (nghiệp) danh tướng trong tam giới, tự thân thọ dụng tất cả vọng tưởng đều do mê Như Lai tàng tánh từ vô thủy làm chủng thức, vọng sanh chừng ngằn. Tâm cảnh bị hiện đều không thể được, không chủ, không chỗ nương, liền đó chóng liễu ngộ.

12 Hư ngụy vọng tưởng huân tập chấp cảnh, phân biệt :
Như thế, người ngu hư ngụy vọng tưởng huân tập từ vô thủy, ba độc đốt tâm ưa cảnh giới sắc, thấy sanh trụ diệt, chấp tánh trong ngoài, rơi nơi tưởng một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường vọng kiến nhiếp thọ. Như thế ngoại đạo ác kiến hy vọng, y nơi kiến chấp một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường, hí luận chấp trước, chẳng thật kiến lập. Đại Huệ! Thế nên muốn được việc tự giác thánh trí phải lìa sanh trụ diệt, một, khác, đồng, chẳng đồng, có, không, chẳng phải có, chẳng phải không, thường, vô thường v.v… ác kiến vọng tưởng. VỌNG CHẤP là chỉ cho tướng Chấp Thủ trên. Gọi là VỌNG vì nó chỉ là thứ hư dối, do huân tập lâu đời mà thành, không có thật thể. Song do sự dính mắc ấy mà trên cảnh sở thủ mới nảy sanh tâm suy lường rồi tạo nghiệp.

13 “TẤT CẢ PHÁP nương nơi vọng niệm mà có sai biệt” có 2 ý :
1. Sự sai biệt do nhân duyên biến : Cảnh giới chúng sanh là do lực HUÂN và BIẾN không thể nghĩ bàn của những chủng tử huân tập trong tàng thức mà ra. Tùy loại niệm và tùy mức độ huân tập mà hiện ra vô lượng vô biên tướng sai biệt trong pháp giới này. Như niệm tham là nhân thì quả là cảnh giới quỉ đói. Niệm sân là nhân thì quả là tướng súc sanh. Niệm từ, bi, hỉ, xả là nhân thì quả là tướng Bồ tát v.v...  2. Sự sai biệt do phân biệt biến : Do không biết cảnh giới trước mắt là do thức biến nên trên cảnh lại sanh phân biệt chấp thủ, niệm niệm tương tục chẳng dứt, khiến cảnh giới càng thêm sai biệt. Như trên cùng một cảnh mà vui thì thấy cảnh tươi tắn rạng rỡ, buồn thì thấy cảnh tiêu điều tang thương. Hoặc trên cùng một người mà người thì thấy đẹp, kẻ lại thấy xấu. Cảnh giới phát sanh nhiều thứ sai khác như thế là do tâm trạng và quan niệm của từng người có sai khác

14 Nghĩa huân tập cảnh giới hư vọng có 2 thứ.
Thế nào là 2?  1. Huân tập tăng trưởng niệm.  2. Huân tập tăng trưởng thủ. quá trình “Cảnh giới hư vọng và nhiễm pháp làm duyên liền huân tập vọng tâm khiến tâm ấy niệm trước” trên. Cảnh giới làm duyên huân tập vọng tâm là vọng tâm nương nơi cảnh giới hư vọng mà xông ướp thêm vô minh nên nói HUÂN TẬP CẢNH GIỚI. Tức lấy nghiệp thức làm nhân, cảnh giới hư vọng làm duyên, sanh 4 tướng đầu của 6 thô. Trí Tướng và Tương Tục Tướng thuộc về NIỆM. Chấp Thủ và Kế Danh Tự thuộc về THỦ. Căn bản nghiệp thức huân tập : Làm cho A La Hán, Bích Chi Phật và tất cả Bồ tát phải chịu cái khổ sanh tử Tăng trưởng phân biệt sự thức huân tập : Làm cho phàm phu phải chịu cái khổ do nghiệp trói buộc. 

15 HUÂN TẬP HƯỚNG THƯỢNG - GIẢI THOÁT
HUÂN TẬP chính là nguyên nhân khiến chân thể thanh tịnh phát sinh thành cảnh giới chúng sanh, cũng là điều kiện để một chúng sanh có thể thành Phật. Đây là lý do vì sao nhà thiền dạy người “Phản quan tự kỷ bổn phận sự”. Có gì không từ tâm sanh mà không quay lại tâm mình? Trong nguyên lý tu tập, sự huân tập rất quan trọng. Duy thức học không cho Chân như là sở huân. Khởi tín trái lại, nói Chân như là căn bản của sự huân tập. Luận này đem lại 2 đức tin căn bản sau đây. Một, tự tín bản thể là Chân như. Chân như có thể năng huân, có thể sở huân. Do vậy mà chán ưa của ý thức rồi ra sẽ biết chán sinh tử ưa giải thoát, mà ý chí của ý rồi ra sẽ là tinh tiến dũng mãnh ...

16 Thế nào là huân tập khởi ra pháp tịnh không dứt
Thế nào là huân tập khởi ra pháp tịnh không dứt? Nghĩa là do có pháp chân như nên huân tập được vô minh. Do sức nhân duyên huân tập ấy nên khiến vọng tâm chán cái khổ sinh tử, ưa cầu niết bàn. Do nhân duyên chán khổ cầu vui của vọng tâm ấy nên liền huân tập chân như, tự tin bản tính, biết tâm vọng động, chứ không có cảnh giới tiền trần, và tu pháp viễn ly. Do như thật biết không có cảnh giới tiền trần nên dùng nhiều thứ phương tiện, khởi ra sự tu hành tùy thuận, không chấp, không niệm, đi đến nhờ sức huân tập lâu ngày mà vô minh liền diệt. Do vô minh diệt nên tâm không khởi lên; do tâm không khởi lên nên cảnh giới theo đó mà diệt; donhân duyên đều diệt nên tâm tướng đều hết sạch, gọi là được niết bàn, thành tựu tự nhiênnghiệp. Huân tập của vọng tâm có hai nghĩa. Thế nào là hai? Một là huân tập của phân biệt sự thức, nương với các phàm phu và Nhị thừa, vân vân, chán cái khổ sinh tử nên theo sức khả năng mà lần hồi tu tiến về đạo vô thượng; hai là huân tập của ý, nghĩa là các vị Bồ tát phát tâm dũng mãnh, mau chóng đi đến niết bàn vậy. Huân tập của chân như có hai nghĩa. Thế nào là hai? Một là huân tập của tự thể tướng, hai là huân tập của dụng. Huân tập của tự thể tướng là từ vô thủy đến nay đầy đủ các pháp vô lậu. Huân tập của dụng là sẵn đủ cái tính làm ra cảnh giới của bất tư nghì nghiệp. Nương với sự huân tập thường xuyên của hai nghĩa ấy và do có sức huân tập đó, nên khiến cho chúng sinhchán cái khổ sinh tử, ưa cầu niết bàn, tự tin thân mình có pháp chân như mà phát tâm tu hành.

17 Huân tu để hiển lộ Chân chư :
Tin biểu hiệu Chân như là Phật, ở đâu và lúc nào cũng có bên ta, thậm chí có khi làm tôi tớ, làm kẻ thù để ích lợi cho ta. Khởi tín nói rằng, trong Chân như (nơi ta và nơi Phật) ta được sống dẫu như một kẻ đui mù mà vẫn hưởng được ánh nắng mặt trời. Khởi tín khuyến cáo ta tu ngay vào Chân như : tu định Chân như, suy nghiệm Chân như là siêu việt và hoạt dụng. Lại nói nếu niệm Phật Di đà mà suy ngẫm Chân như của Ngài thì là định Chân như đó.

18 Nội lực của chân như huân tập phối hợp với tha lực Phật Bồ Tát đưa đến niết bàn :
Thế nên nhân duyên phải đủ cả - phải tự có nội lực của chân như huân tập, lại được nguyện lực của Phật đà Bồ tát từ bi hộ trì, mới biết chán cái khổ của sinh tử, mới biết tin cái vui của niết bàn, mới biết tu những điều lành căn bản; rồi nhờ những điều lành này thuần thục nên được gặp chư vị Phật đà Bồ tát chỉ dạy, thuyết phục, khuyến khích và tán thưởng , mới đi thẳng một cách mau lẹ đến tuệ giác niết bàn

19 Lại pháp của chư Phật có nhân, có duyên; nhân duyên đầy đủ mới thành tựu được. Như tính lửa trong cây là chính nhân của lửa, nhưng nếu người ta không biết, không nhờ phương tiện mà tự đốt được cái cây thì không có lẽ nào như vậy. Chúng sinh cũng thế, tuy có sức huân tập của chính nhân, nhưng nếu không gặp chư Phật Bồ tát và thiện tri thức, vân vân, để làm cái duyên, mà tự đoạn được phiền não, vào được niết bàn thì không có lẽ nào như vậy. Nếu tuy có sức ngoại duyên mà pháp tịnh bên trong chưa có sức huân tập, thì cũng không thể rốt ráo chán cái khổ sống chết, mong cầu niết bàn. Nếu nhân duyên đầy đủ, nghĩa là tự mình có sức huân tập, lại được nguyện từ bi của chư Phật Bồ tát hộ trì, thì có thể khởi cái tâm chán khổ, tin có niết bàn và tu tập thiện căn. Do tu tập thiện căn đã thành tựu nên khi gặp chư Phật Bồ tátchỉ dạy đường tu lợi lạc, thì có thể tu tiến hướng về đạo niết bàn.

20 Mối liên hệ giữa BẤT ĐỘNG và ĐỘNG MÔN :
Nhiễm tịnh tuy thành nhưng tánh hằng bất động. Vì từ bất động mà thành nhiễm tịnh nên bất động cũng ở trong động môn”. BẤT ĐỘNG là chỉ cho môn chân như. ĐỘNG MÔN là chỉ cho môn sanh diệt. Phất huy diệu dụng Trí Tịnh Tướng và Nhân huân tập kính TRÍ TỊNH TƯỚNG là, y nơi pháp lực huân tập, như thật tu hành, đầy đủ phương tiện, phá tướng thức hòa hợp, diệt tướng tương tục của tâm, hiển bày pháp thân, trí thuần tịnh.  NHÂN HUÂN TẬP KÍNH, là như thật bất không. Tất cả cảnh giới thế gian đều từ trong đó mà hiện, chẳng ra chẳng vào, chẳng mất chẳng hoại, vì tất cả pháp tức là tánh chân thật. Lại, tất cả nhiễm pháp đều chẳng thể nhiễm, trí thể bất động, đầy đủ vô lậu huân chúng sanh.

21 Đây là nghĩa NHƯ THẬT BẤT KHÔNG ở phần tâm chân như
Đây là nghĩa NHƯ THẬT BẤT KHÔNG ở phần tâm chân như. Gọi là NHÂN HUÂN TẬP bởi cái thể này là chỗ HUÂN TẬP của các chủng tử, chính là sở nhân y của tất cả pháp. Gọi là SỞ NHÂN Y vì nó là chỗ Y TỰA của tất cả pháp, cũng là NHÂN làm phát sanh vạn pháp. DUYÊN HUÂN TẬP KÍNH, là y pháp xuất ly nên chiếu khắp tâm chúng sanh, khiến tu thiện căn, tùy niệm thị hiện. Đầy đủ NHÂN DUYÊN huân tập, niết bàn hiển hiện : Kính thứ hai trên nói về NHÂN huân tập. Đây, nói về DUYÊN huân tập. Bởi lực huân tập nên vô minh diệt. Do vô minh diệt nên tâm không khởi. Do không có khởi, cảnh giới diệt theo. Do nhân duyên đều diệt nên tướng của tâm đều hết, gọi là đắc niết bàn thành nghiệp tự nhiên.

22 Huân tu nơi THỨC hay nơi Ý :
1. Phân biệt sự thức huân tập : Phàm phu và Nhị thừa chán cái khổ sanh tử, tùy sức mình mà tu tập, từ từ hướng về đạo vô thượng. 2. Ý huân tập : Chư vị Bồ tát phát tâm dũng mãnh, chóng đạt niết bàn.  CHÂN NHƯ HUÂN TẬP có 2. Thế nào là hai? Đây là chân như làm năng huân. Chân như huân có 2 loại. Một là tự thể huân tập. Hai là dụng huân tập. TỰ THỂ HUÂN TẬP là nói về cái dụng của tự tánh. Dụng này mọi loài hữu tình đều sẵn đủ. DỤNG HUÂN TẬP là nói về cái dụng của chân như.

23 Tướng tự thể huân tập và dụng huân tập :
1. Tướng tự thể huân tập : Từ vô thủy đến nay, đầy đủ pháp vô lậu, có đủ nghiệp chẳng thể nghĩ bàn làm tánh cảnh giới. Y nơi 2 nghĩa ấy thường hằng huân tập. Bởi có lực này nên hay khiến chúng sanh chán cái khổ sanh tử, thích cầu niết bàn, tự tin thân mình có pháp chân như, phát tâm tu hành.  2. Dụng huân tập : Chính là lực ngoại duyên của chúng sanh. Như vậy, ngoại duyên có vô lượng nghĩa. Lược nói có 2 thứ. Thế nào là 2? Một là duyên sai biệt. Hai là duyên bình đẳng. Loại dụng này phải chứng pháp thân rồi mới có, dùng làm ngoại duyên giúp chúng sanh tu hành. Dụng này tùy vào căn nghiệp của chúng sanh hữu duyên mà ứng hiện

24 Nương duyên sai biệt và duyên bình đẳng độ chúng sanh
Duyên sai biệt : Người ấy, trong khoảng thời gian từ khi mới phát tâm cầu đạo cho đến khi thành Phật, đều nương nơi chư Phật và các vị Bồ tát. Trong đó, hoặc thấy, hoặc niệm, hoặc làm quyến thuộc, cha mẹ, người thân, hoặc làm người giúp việc, hoặc làm bạn hữu, hoặc làm oan gia, hoặc khởi tứ nhiếp ... cho đến tất cả việc làm với vô lượng duyên hạnh. Bởi do lực huân tập đại bi phát khởi nên hay khiến chúng sanh tăng trưởng thiện căn, nếu thấy nếu nghe đều được lợi ích. Duyên bình đẳng : Tất cả chư Phật và Bồ tát đều nguyện độ thoát hết thảy chúng sanh, tự nhiên huân tập thường hằng chẳng bỏ. Bởi cùng lực trí thể nên tùy theo thấy nghe cảm ứng mà hiện làm các nghiệp. Nghĩa là, chúng sanh nương nơi tam muội đều bình đẳng được thấy chư Phật. 

25 2 loại Huân chưa Tương ưng và Huân đã Tương ưng :
Huân chưa tương ưng : Phàm phu, Nhị thừa và các vị Bồ tát sơ phát tâm do ý, ý thức huân tập, nương nơi tín lực mà tu hành, nên chưa được tâm vô phân biệt cùng thể tương ưng, chưa được nghiệp tu hành tự tại cùng dụng tương ưng. HUÂN CHƯA TƯƠNG ƯNG là, tuy là huân tập tịnh pháp nhưng sự huân tập này chưa tương ưng được với chân như. Huân đã tương ưng : Pháp thân Bồ tát được tâm vô phân biệt cùng với trí dụng của chư Phật tương ưng, chỉ nương nơi pháp lực, tự nhiên tu hành, huân tập chân như, diệt trừ vô minh.  HUÂN ĐÃ TƯƠNG ƯNG là sự huân tập tịnh pháp lúc này đã tương ưng được với chân như.

26 Nói về chơn như (pháp thanh tịnh) huân tập
Nói về chơn như (pháp thanh tịnh) huân tập. Chơn như huân tập vô minh, có hai phần: 1. Thể tướng chơn như huân tập 2. Diệu dụng chơn như huân tập. Nói về thể tướng chơn như huân tập vô minh: tất cả chúng sanh từ vô thỉ đến nay, đều sẵn có bản thể chơn như (tánh Phật) vốn có đủ các công dụng (diệu dụng chơn như )không thể nghĩ bàn, sanh ra các cảnh giới. Do thể tướng và công dụng của chơn như(tánh Phật) thường huân tập vô minh, nó thúc đẩy chúng sanh chán khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn, và tự tin mình có saün chơn như (tánh Phật) nên tự phát tâm tu hành để thành Phật.

27 Huân tu để thanh tịnh sanh khởi, chứng Thánh quả
Huân tập thế nào, mà các pháp thanh tịnh sanh khởi không dứt?_ Do chơn như huân tập vô minh, nên làm cho hành giả khởi vọng tâm nhàm chán khổ sanh tử, cầu vui Niết bàn. Nhờ công năng chán khổ sanh tử, ưa thú vui Niết bàn của vọng tâm đó, trở lại huân tập vào chơn như, nên hành giả mới tự tin tánh Phật (khả năng thành Phật) của mình, (ở vị Thập tín) và biết cảnh giới hiện tiền không thẫt có, chỉ do tâm vọng động hiện ra (thập trụ) rồi tu hành để xa lìa các nhiễm ô (thập hạnh và Thập hồi hướng). Khi biết xác thực, không có cảnh giới hiện tiền (Sơ địa) hành giả mới dùng các phương tiện tu hành (từ Nhị địa đến Cửu địa) và khởi ra hạnh tuỳ thuận chơn tâm, không chấp thủ (Chấp thủ tướng và Kế danh tự tướng) không vọng niệm(Trí tướng và Tương tục tướng) và tu hành trải qua nhiều kiếp lâu xa (Thập địa). Tóm lại, nhờ sức chơn như huân tập này, nên vô minh diệt (Nghiệp tướng diệt). Vì vô minh diệt nên tâm không vọng động (Chuyển tướng diệt); do tâm không vọng động nên cảnh giớicũng theo đó mà diệt (Hiện tướng diệt). Do vô minh (nhơn) và cảnh giới (duyên) đều diệt, nên các tướng vọng nhiễm của tâm cũng diệt hết (Lục thô diệt hết). Lúc bấy giờ, gọi là chứng Niết bàn, và hành giả được diệu dụng không thể nghĩ bàn (tự nhiên nghiệp).

28 Thuận duyên tu để hiển lộ Chân chư :
Lại nữa, trong Phật pháp nói: "Tất cả các pháp đều do nhơn duyên sanh; nhơn duyên đầy đủ mới được thành tựu". Thí như chất lửa trong cây là "Chánh nhơn" của lửa. Song, nếu không có "trợ duyên" là người biết lấy lửa, và các phương tiện như bùi nhùi, (bổi) công người cọ sát v.v...thì lửa kia không thể tự phát sanh ra được. Cũng vậy, chúng sanh tuy saün có tánh Phật (chơn như) là cái "nhơn chánh" để thành Phật; song nếu không có "ngoại duyên" là gặp các Đức Phật, Bồ Tát và Thiện tri thứcv.v...dẫn dắt chỉ dạy cho phương pháp tu hành, thì hành giả cũng không thể tự mình đoạn trừ phiền não và tu chứng Niết bàn được. Trái lại, nếu chỉ có "ngoại duyên" mà không có chơn như là cái "nhơn chánh" để thành Phật, huân tập bên trong, thì hành giả cũng không thể tự mình chán khổ sanh tử, cầu vui rốt ráo Niết bàn được. Bởi thế nên, phải có nội nhơn và ngoại duyên đều đầy đủ; nghĩa là bên trong nhờ tánh Phật (chơn như) làm "chánh nhơn" huân tập; bên ngoài nhờ đức từ bi và đại nguyện của Phật, Bồ Tát giúp hộ làm "trợ duyên", thì hành giả mới chán khổ sanh tử, tin có cõi Niết bàn và phát tâm tu tập các pháp lành. Nhờ tu tập các pháp lành được thuần thục, nên hành giả mới gặp chư Phật Bồ Tát thị hiện, chỉ dạy những điều lợi lạc. Lúc bấy giờ hành giả mới tinh tấn tu hành, để đến đạo quả Niết bàn.

29 Lại nữa, vô minh (pháp nhiễm ô) và chơn như (pháp thanh tịnh) đều đã có saün từ vô thỉ đến nay và huân tập chẳng dứt; song đến khi thành Phật rồi, thì vô minh bị dứt hết, còn chơn như lại vô cùng tận trong dời vị lai, cho đến sau khi thành Phật cũng vẫn còn. Tại sao vậy? _ Vì chơn như thường huân tập, nên vọng tâm (vô minh) phải tiêu diệt. Do vọng tâm tiêu diệt, nên pháp thân hiện ra; rồi pháp thân lại khởi diệu dụng, huân tập trở lạinữa, nên chơn như không có cùng tận.

30 Huân Tập Trí Tịnh Tướng – Bất Tư Nghì Nghiệp Tướng – Trừ vô minh và nhiễm ô :
Trí tịnh tướng là nương với sức huân tập của chính pháp, như thật tu hành, đầy đủ phương tiệnnên phá được tướng hòa hợp thức, diệt được tướng tâm tương tục, tỏ hiện pháp thân, trí thuần tịnh vậy. Nghĩa đó thế nào? Do tất cả những tướng tâm thức đều là vô minh, cái tướng vô minhkhông rời giác tính, không phải là có thể hoại, cũng không phải là không thể hoại. Như nước biển lớn, nhân gió mà sóng động lên, tướng nước tướng gió không rời bỏ nhau mà nước không có tính động, nếu gió ngừng diệt thì tướng động liền diệt, còn tính ướt thì không hư hoại; tự tính thanh tịnh tâm của chúng sinh cũng như thế, nhân gió vô minh mà động, tâm cùng vô minh đều không có hình tướng, không rời bỏ nhau, nhưng tâm không có tính động, nếu vô minh diệt thì tương tục diệt, còn tính trí thì không hư hoại vậy. Bất tư nghì nghiệp tướng là nương với trí thanh tịnh, có thể làm ra tất cả cảnh giới thắng diệu, nghĩa là cái tướng vô lượng công đức, thường không dứt đoạn, theo căn chúng sinh, tự nhiênkhế hợp, hiện ra nhiều thứ, làm cho được lợi ích vậy.


Tải xuống ppt "HUÂN TẬP HƯỚNG HẠ VÀ HƯỚNG THƯỢNG"

Các bản thuyết trình tương tự


Quảng cáo bởi Google